PGS.TS Đỗ Duy Cường (đứng giữa) thăm khám cho bệnh nhân trước khi được xuất viện.
Người mắc bệnh thường chủ quan
Theo thống kê, tại nước ta, tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B từ 15 - 20% dân số, nhiễm virus viêm gan C từ 2 - 6%. Theo các chuyên gia y tế, các trường hợp bệnh nhân bị viêm gan B hay viêm gan C thường không được phát hiện kịp thời và chỉ nhập viện điều trị khi bệnh đã có những biến chứng nguy hiểm là khá phổ biến. Nguyên nhân, do bệnh viêm gan thường có những tiến triển chậm, không điển hình, nên người mắc bệnh thường chủ quan.
Bệnh viêm gan đang trở nên phổ biến trong cộng đồng, nếu không chữa trị kịp thời sẽ tiến triển nặng, gây tử vong nhanh. TS Phan Trọng Lân - Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) cảnh báo, căn bệnh viêm gan B và viêm gan C rất dễ lây truyền trong cộng đồng, đều lây truyền qua đường máu, tình dục và từ mẹ sang con. So với virus viêm gan B thì virus viêm gan C lây truyền chậm hơn và ít biểu hiện hơn, nhưng lại gây ra những hậu quả rất nặng nề. Ba biến chứng thường gặp nhất của bệnh viêm gan C chính là: suy gan, xơ gan và ung thư gan. Người bệnh hoàn toàn có thể bị tử vong từ 1 trong 3 biến chứng trên. Đáng lo là phần lớn người mắc viêm gan C mạn tính cũng không có triệu chứng gì và vẫn sống gần như bình thường, chỉ khi bị xơ gan hoặc ung thư gan mới thể hiện các triệu chứng.
Theo ông Trần Đắc Phu - nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, điều nguy hiểm là trong giai đoạn đầu, viêm gan thường không có triệu chứng rõ ràng nên rất ít trường hợp được phát hiện sớm. Tình trạng viêm kéo dài khiến tế bào gan bị hư hại, hình thành các mô sẹo gây xơ gan, kết hợp với các tác nhân khác sẽ dẫn tới ung thư gan. Các biến chứng của viêm gan thường đến sớm và nhanh nếu bệnh nhân đồng thời có từ 2 yếu tố nguy cơ trở lên như nhiễm siêu vi và lạm dụng rượu bia.
TS Trần Đắc Phu nhấn mạnh, viêm gan là tình trạng tổn thương gan, đặc trưng bởi sự hiện diện của các tế bào viêm. Nhiều nghiên cứu gần đây phát hiện, khi tế bào Kupffer (là đại thực bào thường trú ở gan của tất cả mọi người) bị kích hoạt quá mức bởi các yếu tố như thực phẩm nhiễm độc, rượu bia, thuốc điều trị phóng thích ra các chất gây viêm gây tổn thương tế bào gan, khiến viêm gan dễ khởi phát, tăng nặng và gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm. Để phòng, trị viêm gan, cần tiếp cận ở nhiều khía cạnh như dùng thuốc theo chỉ định kết hợp với thay đổi lối sống, dinh dưỡng…
Ở nước ta việc phòng bệnh viêm gan hiện chưa được quan tâm đúng mức. Người bệnh đừng vội mừng khi xét nghiệm thấy men gan hạ vì coi chừng gan đã bị hư hoại nghiêm trọng, không còn tế bào gan khỏe để bị hủy hoại nên không phóng thích men gan vào máu. Hay, xét nghiệm thấy số lượng virus gây viêm gan giảm, nhưng không hẳn 100% bệnh viêm gan đã khỏi. Để xác định các bệnh lý gan cần kết hợp nhiều xét nghiệm cận lâm sàng, xét nghiệm sinh học phân tử PCR, xét nghiệm men gan… mới cho kết quả chính xác.
Tiêm phòng ngay khi sinh
Khả năng lây nhiễm viêm gan B cao hơn HIV từ 50 đến 100 lần, chủ yếu qua qua đường máu, sinh hoạt tình dục, nguy cơ khi dùng chung đồ dùng cá nhân như bàn chải đánh răng, dao cạo với người bệnh. Phương thức lây nhiễm phổ biến nhất là lây nhiễm trong khi sinh: trẻ sơ sinh có nguy cơ lây nhiễm khi sinh từ 10 - 90% nếu mẹ bị nhiễm viêm gan B. Tiêm chủng vaccine viêm gan B cho trẻ trong 24 giờ nhằm mục đích phòng chống lây truyền virus viêm gan B từ mẹ sang con.
PGS.TS Đỗ Duy Cường - Giám đốc Trung tâm Bệnh nhiệt đới (Bệnh viện Bạch Mai) lưu ý rằng, viêm gan B, C là nguyên nhân hàng đầu gây xơ gan, ung thư gan. Đáng lo khi chỉ có 9% người bệnh biết mình bị nhiễm, trong số này chỉ 8% được điều trị. Việc điều trị viêm gan B lâu dài, tốn kém, tuy nhiên có thể dự phòng được bằng tiêm vaccine khỏi các biến chứng xơ gan, ung thư gan với tỉ lệ tới 95%. Đồng thời khuyến cáo, để phòng ngừa viêm gan B thì người dân nên tiêm phòng vaccine, đặc biệt tất cả trẻ em nên được tiêm phòng vaccine viêm gan B trong vòng 24 giờ sau khi sinh và các liều sau đó theo lịch của chương trình tiêm chủng.
TS Vương Ánh Dương - Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) cho biết, viêm gan virus B đã có vaccine phòng bệnh và hiện nay đã có thuốc điều trị. Việc điều trị viêm gan B bằng thuốc kháng virus có hiệu quả cao để làm chậm tiến triển đến xơ gan và giảm tỷ lệ mắc ung thư gan và cải thiện tỷ lệ sống kéo dài.
Đối với viêm gan virus C, tuy chưa có vaccine dự phòng, nhưng việc điều trị đã có những tiến bộ vượt bậc, có thể điều trị khỏi trong vòng 3 - 6 tháng. Để phòng, chống viêm gan virus B, C, Bộ Y tế đã ban hành đầy đủ hướng dẫn chẩn đoán, điều trị các bệnh viêm gan virus B, viêm gan virus C. Bên cạnh đó, vaccine phòng viêm gan virus B đã được đưa vào Chương trình Tiêm chủng mở rộng từ những năm 1997. Ngoài ra, để dự phòng viêm gan, mỗi người cần hạn chế rượu bia, thuốc lá, cẩn trọng khi dùng thuốc, lựa chọn thực phẩm an toàn và khám sức khỏe gan định kỳ…
Cũng theo TS Vương Ánh Dương, hiện Cục Quản lý Khám, chữa bệnh cùng các đơn vị liên quan đã và đang nỗ lực để dự phòng lây nhiễm viêm gan virus B, C và tham mưu cho lãnh đạo Bộ Y tế xây dựng các chính sách để giảm chi phí điều trị cho người bệnh viêm gan virus B, C. Đặc biệt là để người bệnh viêm gan virus C có thể tiếp cận với các loại thuốc mới có hiệu quả cao, nhanh chóng được chữa khỏi bệnh.
Các chuyên gia y tế khuyến cáo, mỗi người dân Việt Nam cần biết bảo vệ mình và gia đình mình khỏi căn bệnh viêm gan virus, hãy đảm bảo thế hệ con cháu chúng ta không bị viêm gan B bằng việc đưa trẻ đi tiêm phòng viêm gan B đầy đủ, đúng lịch của Chương trình Tiêm chủng mở rộng; chủ động thực hiện xét nghiệm kiểm tra viêm gan virus để được điều trị sớm. Các thầy thuốc hãy bảo đảm người bệnh được cung cấp dịch vụ an toàn, tránh lây nhiễm trong trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh.